Các chủ đề liên quan tới triết học tinh thần Triết_học_tinh_thần

Có vô số chủ đề bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng phát triển trong triết học tinh thần. Những ví dụ rõ ràng nhất có thể kể tới là bản chất của cái chết và những đặc điểm xác định nó, bản chất của cảm xúc, của tri giácký ức. Những câu hỏi về việc một người là gì và cá tính của anh ta/cô ta bao gồm những gì cũng liên hệ nhiều tới ngành triết học này. Tuy nhiên, có hai chủ đề mà, trong mối liên hệ với triết học tinh thần, gây lên một sự chú ý đặc biệt: ý chí tự docái tôi[2].

Ý chí tự do

Bài chi tiết: Tự do ý chí

Trong khuôn khổ của triết học tinh thần, vấn đề ý chí đảm nhiệm một tầm mức được làm mới lại. Điều này ít nhất cũng là chắc chắn trong trường hợp tất định luận duy vật [2]. Theo quan điểm này, các quy luật tự nhiên hoàn toàn xác định sự vận hành của thế giới vật chất. Các trạng thái tinh thần, bao gồm cả ý chí, chỉ là các trạng thái vật chất, điều này nghĩa là tất cả các quyết định và hành vi của con người được hoàn toàn xác định bởi các quy luật tự nhiên. Một vài người đẩy lập luận này xa hơn: người ta không thể tự quyết định cái gì họ muốn và cái gì họ làm. Hậu quả là, họ hoàn toàn không tự do[81].

Lập luận này bị bác bỏ, theo một cách, bởi thuyết tương thích. Những người ủng hộ thuyết này cho rằng câu hỏi "Chúng ta có tự do không?" chỉ có thể được trả lời một khi chúng ta đã xác định thuật ngữ "tự do" hàm chứa điều gì. Sự đối lập với "tự do" không phải là "bị sai khiến" mà là "bị cưỡng bách" hoặc "bị ép buộc". Sẽ không phù hợp nếu đồng nhất tự do với sự vô định. Một hành động tự do là một hành động ở đó tác nhân có thể hành động theo cách khác nếu nó được chọn theo cách khác. Theo nghĩa này một cá nhân là tự do ngay cả khi tất định luận đúng[81]. Người theo thuyết tương thích quan trọng nhất trong lịch sử triết học là David Hume[82]. Gần đây hơn, lập trường này vẫn được bảo vệ bởi một số nhân vật, chẳng hạn Daniel Dennett[83].

Theo một cách khác, có những người theo thuyết bất tương thích bác bỏ lập luận của tất định luận bởi họ tin rằng ý chí là tự do theo một nghĩa mạnh hơn gọi là chủ nghĩa tự do[81]. Các triết gia này khẳng định rằng sự vận hành của thế giới hoặc là a) không hoàn toàn xác định bởi các quy luật tự nhiên, nơi quy luật tự nhiên bị chặn lại bởi các cơ quan độc lập về thể xác[84], b) được xác định chỉ bởi quy luật tự nhiên bất định, hoặc c) được xác định bởi các quy luật tự nhiên bất định đi đôi với nỗ lực chủ quan của cơ quan thể xác không quy giản được[85]. Theo chủ nghĩa tự do, ý chí không phải là tất định và do đó nó có khả năng tự do. Những người chỉ trích về luận điểm thứ hai (b) lên án những người theo thuyết bất tương thích về việc dùng một quan niệm không chặt chẽ. Họ lập luận như sau: nếu ý chí của chúng ta không được xác định bởi bất cứ thứ gì, thì chúng ta ham muốn điều ta ham muốn bằng cơ may thuần túy. Và nếu điều chúng ta mong muốn là thuần túy ngẫu nhiên, thì chúng ta không tự do. Vì thế nếu ý chí của chúng ta không được xác định bởi bất cứ điều gì, chúng ta không tự do[81].

Cái tôi

Bài chi tiết: Cái tôi

Triết học về tinh thần cũng có những hệ quả quan trọng đối với quan niệm về cái tôi. Nếu đưa ý kiến về "cái tôi" hay "Tôi" mà người ta liên hệ với một hạt nhân cốt yếu, không thể thay đổi của "cá nhân", hầu hết các nhà triết học tinh thần hiện đại sẽ khẳng định rằng không có thứ gì như thế tồn tại[86]. Ý tưởng về một cái tôi như một hạt nhân cốt yếu bất biến xuất phát từ ý tưởng về một linh hồn phi vật chất. Một ý tưởng như vậy là không thể chấp nhận với hầu hết các triết thuyết đương đại, do định hướng duy vật lý của chúng, và do sự chấp nhận rộng rãi giữa các trường phái về chủ nghĩa hoài nghi về quan niệm "cái tôi" bởi David Hume, người không bao giờ có thể nắm bắt được bản thân ông làm, nghĩ hay cảm thấy bất cứ điều gì[87]. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của các kết quả thực nghiệm từ tâm lý học phát triển, sinh học phát triển, tư tưởng về một hạt nhân cốt yếu nhưng có tính vật chất và không phải bất biến - một hệ thống đại diện tích hợp được phân bố trên sự thay đổi những mô hình các kết nối thần kinh — dường như là hợp lí[88]. Quan điểm xem cái tôi như một ảo giác được chấp nhận bởi một số triết gia, chẳng hạn Daniel Dennett.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Triết_học_tinh_thần http://ditext.com/feigl/mp/mp.html http://www.informationphilosopher.com/books/scanda... http://link.springer.com/article/10.1007%2Fs11098-... http://adsabs.harvard.edu/abs/1936FrInJ.221..349E http://plato.stanford.edu/archives/fall2003/entrie... http://plato.stanford.edu/archives/fall2008/entrie... http://plato.stanford.edu/archives/sum2002/entries... http://plato.stanford.edu/archives/sum2002/entries... http://plato.stanford.edu/archives/win2005/entries... http://plato.stanford.edu/entries/neutral-monism/#...